[Thị trường] Dự báo triển vọng kinh tế Toàn cầu và ảnh hưởng đến Việt Nam trong năm 2024

Dự báo triển vọng kinh tế Toàn cầu và ảnh hưởng đến Việt Nam trong năm 2024

[Thị trường] Dự báo triển vọng kinh tế Toàn cầu và ảnh hưởng đến Việt Nam trong năm 2024

Nền kinh tế Việt Nam vẫn còn những thách thức riêng biệt cản trợ đà tăng trưởng giữa lúc triển vọng kinh tế toàn cầu mang tín hiệu khởi sắc nhưng chững lại do nhiều nhân tố rủi ro bất định.

Dự báo triển vọng kinh tế Toàn cầu và ảnh hưởng đến Việt Nam trong năm 2024
Việt Nam còn nhiều dư địa và tiềm năng để cải thiện khi năng suất lao động vẫn còn thấp hơn rất nhiều so với các nước trong khu vực.

Còn đấy những rủi ro bất định toàn cầu

Với nhiều vấn đề tồn đọng và thách thức lớn, nền kinh tế toàn cầu bước sang năm 2024. Vì nhiều nguyên nhân nên tốc độ tăng trưởng sẽ chững lại, thấp dần so với các thập niên trước.

Bốn năm từ thời điểm đại dịch Covid-19 bùng phát, kinh tế toàn cầu cũng chưa thể hồi phục về tốc độ tăng trưởng trước đại dịch. So với GDP ước tính trước thời điểm có đại dịch dự báo GDP toàn cầu năm 2023 sẽ thấp hơn ít nhất 3,4% (khoảng 3. 700 tỉ đô la Mỹ). Sự phục hồi kinh tế được phân phối không đồng đều.

Trước đại dịch, Hoa Kỳ là nước duy nhất đã hồi phục về quỹ đạo tăng trưởng. Châu Âu thậm chí chỉ tăng trưởng dưới 2,2% và Trung Quốc 4,2% so với trước Covid-19. Đáng lưu ý là 73 nước nghèo đói có thu nhập thấp (low income countries – theo thống kê của Ngân hàng Thế giới (WB) và Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF)) bị tổn thất đến 6,5% GDP do đại dịch.

Sự tổn thất này sẽ không hồi phục ngay được. Nói một cách ngắn gọn, Covid-19 đã làm các nước nghèo tăng trưởng chậm hơn, do đó bị cản trở quá nhiều đối với công cuộc xoá đói giảm nghèo. Thêm hơn 100 triệu người dân đã bị lâm vào tình trạng đói nghèo cùng cực.

Các hoạt động kinh tế, tài chính bị gián đoạn đã làm giảm năng suất của nền kinh tế, gia tăng chi phí kinh doanh. Nhìn chung, tăng trưởng kinh tế chậm chạp hơn gây sức ép đối với lạm phát. IMF đã dự báo nền kinh tế toàn cầu sẽ bị giảm 7% trong thập kỷ sắp tới.

Cuộc cạnh tranh chiến lược và chính trị giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc đã chia cắt nền kinh tế toàn cầu làm hai phần – thiên về Hoa Kỳ hay ngả về Trung Quốc.

Đặc biệt, chuỗi cung ứng toàn cầu của nhiều hàng hoá chiến lược và chủ chốt đã có bước phân liệt.

Dự báo triển vọng kinh tế Toàn cầu và ảnh hưởng đến Việt Nam trong năm 2024
Ngân hàng Thế giới dự báo gì về kinh tế Việt Nam năm 2024?

Nghiên cứu của IMF cho biết trong những năm vừa rồi, hoạt động xuất khẩu mặt hàng và sản phẩm chủ chốt, giao dịch tài chính bao gồm đầu tư trực tiếp, giao dịch uỷ thác và khoản tín dụng thương mại đã tăng trưởng nhanh chóng hơn ở các quốc gia khác trong khu vực, so với tốc độ tăng trưởng trung bình trên khắp thế giới. Các hoạt động kinh tế, tài chính bị gián đoạn đã làm giảm năng suất của nền kinh tế, gia tăng chi phí kinh doanh.

Nhìn chung, tăng trưởng kinh tế chậm chạp hơn gây sức ép đối với lạm phát.

IMF đã dự báo nền kinh tế toàn cầu sẽ bị giảm 7% trong thập kỷ sắp tới. Nền kinh tế sẽ bị tác động xấu nếu xung đột chiến lược Hoa Kỳ – Trung Quốc trầm trọng hơn, biến thành các căng thẳng địa chính trị, tương tự với tác động của cuộc khủng hoảng năng lượng tại Ukraine, đã làm nâng giá xăng dầu, lương thực trên toàn cầu và làm giảm tăng trưởng. Nếu lan rộng hơn, cuộc đối đầu vũ trang Israel – Hamas (tại Trung Đông) cũng có tác động xấu tương tự.

Do thay đổi thời tiết, các đợt thiên tai, dịch bệnh cực đoan xảy ra nhiều hơn nữa cũng tác động lên tăng trưởng kinh tế như làm hư hại nhà cửa, hoa màu và tăng phí bảo hiểm nhân thọ cùng các chi phí tài chính khác.

Trong thập kỷ vừa qua, những nhân tố nêu trên đã tác động khiến tốc độ tăng trưởng kinh tế thế giới sụt giảm mạnh, mức trung bình 5%/năm thời kỳ 1950-1960 xuống chỉ đạt 2,5%/năm thời kỳ 2020-2024. Khả năng tăng trưởng của từng quốc gia sẽ chịu tác động từ việc kinh tế thế giới tăng trưởng chậm.

Điều cần lưu ý là thương mại thế giới cũng đã tăng trưởng chậm lại. Từ cuối năm 1980 cho đến đợt đại suy thoái kinh tế năm 2008, thương mại thế giới tăng trung bình 6-7% mỗi năm – gấp đôi tốc độ tăng trưởng kinh tế thế giới. Đây đã là động lực kích thích tăng trưởng kinh tế.

Sau đại dịch, tổng kim ngạch thương mại tăng chậm dần xuống, chỉ có thể tăng 0,8% đến năm 2023 trước khi hồi phục xuống dưới 3% vào năm 2024. Đối với các nền kinh tế mở cửa hơn Việt Nam, thương mại thế giới chậm tăng trưởng sẽ có tác động bất lợi (tỷ trọng xuất khẩu trên GDP tăng cao, xấp xỉ 200%).

Triển vọng kinh tế theo khu vực

Kinh tế nhiều quốc gia Mỹ thời kỳ 2019-2023 đã chịu ảnh hưởng rất lớn bởi ác động của dịch bệnh. Tuy nhiên, cùng giai đoạn trên, mức tăng trưởng trung bình mỗi năm tại Hoa Kỳ là 1,9%, tương đương với mức tăng trưởng dự báo (potential growth rate).

Dự báo triển vọng kinh tế Toàn cầu và ảnh hưởng đến Việt Nam trong năm 2024
Những nền kinh tế được dự báo tăng trưởng nhanh nhất năm 2024, Việt Nam lọt top 20

Trước Covid-19, Hoa Kỳ là quốc gia duy nhất đã phục hồi về quỹ đạo tăng trưởng. Lý do chính là trong năm 2020-2021, Chính phủ Hoa Kỳ đã tiến hành gói kích thích quy mô lớn nhất toàn cầu trị giá trên 5. 000 tỉ đô la Mỹ. Để kích thích tăng trưởng kinh tế, Ngân hàng Trung ương Mỹ (Fed) cũng đưa ra khối lượng thanh khoản khổng lồ như vậy.

Hai sự thúc đẩy này sẽ không thể tiếp diễn đến năm 2024. Bội chi ngân sách thấp và vì Fed đã nâng lãi suất suốt trong hai năm vừa qua – mà những tác động chậm chạp của Fed sẽ vẫn tiếp diễn đến năm 2024. Ngoài ra, các hộ gia đình tại Hoa Kỳ cũng đã rút sạch khoản tiền hỗ trợ vì đại dịch (trên 2. 000 tỉ đô la Mỹ) và sẽ cần cải thiện mức tiêu dùng của mình. Vì vậy, mức tăng trưởng năm 2024 dự kiến sẽ hạ chỉ xuống 1,5%.

Sẽ có cú shock làm tăng trưởng chững lại hoặc suy giảm khi mạnh tay bán hết các khoản nợ lớn và các doanh nghiệp đã giải thể. Nhưng trong dài hạn, động thái này giúp củng cố bảng cân đối kế toán của doanh nghiệp và nhà băng, làm nền tảng để tiếp tục tăng trưởng mạnh mẽ và vững chắc hơn nữa.

Trong khi đó, khu vực đồng euro tại châu Âu lại đang đình trệ với GDP sẽ tăng 0, 7% trong năm 2023 và dự báo 1% trong năm 2024. Đặc biệt là Đức sẽ lâm vào cuộc khủng hoảng năng lượng – vào đầu và cuối năm nay; lạm phát sẽ giảm 0,5% trong năm 2024.

Lý do chủ yếu là giá cả nhiên liệu và lương thực tăng cao sau cuộc chiến tại Ukraine và đã tăng lên trên 10% khiến Ngân hàng Trung ương châu Âu (ECB) đã tăng lãi suất lên cao nhất trong nhiều thập kỷ qua buộc chính phủ cần giảm bội chi ngân sách. Đối với châu Âu – nơi dựa trên xuất khẩu ngày càng tăng, nếu kinh tế toàn cầu không tăng trưởng cũng có tác động tiêu cực.

Trong năm năm 2019-2023, tăng trưởng trung bình mỗi năm của Trung Quốc là 4,5%, thấp hơn mức 7, 5% trong thập kỷ trước Covid-19 nhưng là mức tăng trưởng tiềm năng trong thập niên này. Suất tăng trưởng tiềm năng của Trung Quốc đã giảm do sự già hoá nhân khẩu học khiến tỷ suất sinh nở giảm mạnh, làm tổng số người trong độ tuổi lao động giảm 0,5% mỗi năm, dự kiến sẽ lên mức 0,8% trong vài năm tới. Mức tăng trưởng hiệu suất lao động toàn cầu khi đó cũng giảm còn dưới 5% mỗi năm.

Nói chung, mức tăng trưởng tiềm năng của Trung Quốc sẽ liên tục giảm, chỉ đạt 3-4% trong thập niên 2026-2030 và 2-3% trong những năm 2031-2035. Dù tăng trưởng chậm hơn, GDP của Trung Quốc sẽ đuổi kịp Hoa Kỳ vào khoảng năm 2035 khi cả hai lên mức 30. 000 tỉ đô la Mỹ dù thấp hơn dự báo của quốc gia này.

Tình trạng nợ quá cao vẫn là thách thức nghiêm trọng nhất. Nợ doanh nghiệp lên tới 167% GDP là mức cực cao trên toàn cầu và nợ chính phủ (bao gồm toàn bộ ngân sách nhà nước, chính phủ và các doanh nghiệp mượn nợ của chính phủ) tương đương 95% GDP, hạn chế năng lực kích thích của Chính phủ Trung Quốc.

Trong năm 2023, do du lịch và xuất nhập khẩu tăng trưởng tốt cũng với đồng rupee giảm giá khoảng 11,5% so với đô la Hoa Kỳ từ đầu năm đến giờ đã đưa Nhật Bản trở lại tăng trưởng 2%.

Tuy nhiên, do lạm phát đã vượt mức 2% nên đến năm 2024, tăng trưởng kinh tế tại Nhật sẽ quay trở lại mức 1% của 30 năm đã “mất mát” (1990-2010), kể cả trường hợp Ngân hàng Trung ương Nhật (BOJ) sẽ kết thúc chương trình lãi suất âm.

Trong bối cảnh kinh tế hiện tại, Ấn Độ là Ngoại lệ. Nhờ các cải tổ kinh tế trong thập kỷ qua, nước Ấn Độ đã và sẽ tăng trưởng khoảng 6,5% mỗi năm. Tuy nhiên ảnh hưởng của Ấn Độ đến kinh tế toàn cầu hạn chế bởi vì tỷ lệ xuất và nhập khẩu của Ấn Độ đối với kinh tế toàn cầu còn thấp, chiếm khoảng 2% so (trong khi Trung Quốc là 12,4%).

Trong thập niên sắp tới, châu Á duy trì mức tăng trưởng khoảng 5%, vai trò dẫn đầu chiếm 70% đối với tốc độ tăng trưởng của toàn cầu. Các nước kinh tế mới phát triển (emerging markets) cũng sẽ tăng trưởng chững xuống – khoảng 4% mỗi năm, tương đương một nửa mức tăng trưởng trung bình hai thập kỷ 1990 và 2000.

Các nước này đã hứng chịu ba cú shock lớn là Covid-19, xung đột vũ trang tại Ukraine, tốc độ nâng lãi suất nhanh chóng tăng cao của Fed và ECB. . . , do đó, đến giờ kinh tế không thể phục hồi.

Các nước thu nhập thấp (low income countries) có nợ nần rất cao (3. 500 tỉ đô la Mỹ). Nhiều nước đang ngày càng thiếu nợ. Điều này làm họ ngày càng cảm thấy khó khăn trong phát triển kinh tế. Tiền chi trả lãi suất trên dư nợ tại nhiều nước đã vượt mức 10% thu thuế, việc này khiến cho họ bị hạn chế các chi tiêu thiết yếu về an sinh xã hội, giáo dục, hạ tầng cơ sở, và thậm chí cả vấn đề ứng phó với biến đổi khí hậu.

Châu Phi đang phải đối mặt với sự bất bình đẳng vì mỗi tháng có đến một triệu thanh niên mới gia nhập vào thị trường lao động nhưng chỉ có 25% trong tổng số họ sẽ kiếm được công ăn việc làm, theo Ngân hàng Phát triển châu Phi.

Người lao động thất nghiệp làm tăng sức ép di cư tới châu Âu cũng đồng thời trở thành mối lo ngại về vấn đề bất ổn xã hội và an ninh tại các nước châu Phi.

Khó khăn của Việt Nam

2023 là một năm vô cùng khó khăn đối với Việt Nam, đặc biệt trong sáu tháng đầu năm, dù tổng cầu nội và ngoài nước đều giảm.

Tuy nhiên, nhờ các gói kích thích của Chính phủ nên nền kinh tế đã có tín hiệu phục hồi trong quý 3-2023 với GDP tăng 5,3%. Thêm vào đó, thương mại đầu tư nước ngoài tăng cao vào cuối năm. Nếu duy trì xu hướng trên, tăng trưởng 7% trong quý 4, GDP Việt Nam có thể tăng trưởng 5% vào năm 2023.

Chúng ta phải nhìn nhận tổng thể hơn nữa về nền kinh tế có tính chất chu kì, kèm với việc phân tích các yếu tố có tính chất cấu trúc đang cản trở đà phát triển nhằm dự báo khả năng tăng trưởng trong năm 2024 và 2025.

Trong giai đoạn nhiều biến động 2019-2023, tăng trưởng của Việt Nam đạt trung bình 5,2%/năm. Mức này thấp hơn tốc độ tăng trưởng tiềm năng hiện tại là 5, 5-6%. Trong giai đoạn 2023-2030, một số tổ chức quốc tế đã dự đoán mức tăng trưởng trung bình 5,6%/năm.

Các dự báo đều căn cứ trên nền tảng năng suất lao động Việt Nam tăng bình quân 1% mỗi năm, cùng với năng suất lao động tăng 4, 5-5% mỗi năm. Việt Nam có nhiều cơ hội và tiềm năng để phát triển khi năng suất lao động Việt Nam đang thấp hơn quá xa so với các nước cùng khu vực.

Tất nhiên điều này không dễ dàng tiến hành bởi xu hướng chung của phần lớn các nước trên toàn cầu là ngày càng suy giảm mức tăng trưởng năng suất lao động. Nói chung, mức tăng trưởng của Việt Nam trong vài ba năm nữa theo dự đoán sẽ trong mức tăng trưởng tiềm năng 5, 5-6%.

Đây cũng là dự đoán tăng trưởng của WB, IMF và Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB). Một số chuyên gia nghĩ mức tăng trưởng như thế này là ổn rồi, dù thấp hơn Ấn Độ một tí nhưng mà cũng cao hơn các nước khác trên toàn cầu.

Tôi nghĩ rằng như thế này là sai: Đúng là các nước con cọp châu Á (trừ Trung Quốc) đã tăng trưởng kinh tế nhanh chóng trong giai đoạn đầu. Cụ thể là

  • Các nước châu Á đã tăng trưởng kinh tế trong hơn hai thập kỷ qua khi đạt mức GDP bình quân đầu người 10.000 đô la Mỹ
  • Singapore trung bình tăng 9,4% mỗi năm
  • Đài Loan tăng 8,8%
  • Hàn Quốc là 8,7%
  • Trung Quốc là 8,7%. . .

Tăng trưởng mới tiếp tục chững sau khi đạt mức tăng trưởng khá cao nêu trên song đã vươn lên mức 13.205 đô la Hoa Kỳ để trở thành nước phát triển cao (theo đánh giá của WB). Trong tương lai dài, Trung Quốc cũng có tiềm năng đạt mức tương tự.

Việt Nam thấp hơn đáng kể so với các nước nói trên. Trong thập kỷ đầu sau đổi mới (1990-1999) GDP tăng trưởng trung bình 7, 4% mỗi năm và trong giai đoạn 2000-2009 là 6, 6%. Đó là xét theo con số ước tính cũ, trước khi có đợt điều chỉnh năm 2010 tăng trưởng GDP đạt 25%.

Nếu Tổng cục Thống kê điều chỉnh các số liệu GDP trước năm 2010 (không công khai) để phù hợp với số liệu sau năm 2010, khi ấy, mức tăng trưởng trước năm 2010 sẽ cao hơn nữa, ít ra cũng chỉ vào khoảng 8-9% mỗi năm.

Tuy nhiên sau đó, trên nền tảng số liệu mới, GDP đã tăng trưởng trung bình 6% mỗi năm suốt giai đoạn 2010-2022. Điều này có nghĩa là mức tăng trưởng của Việt Nam đã chững lại sau năm 2010 khi GDP bình quân đầu người chỉ mới 1. 684 đô la Mỹ.

Trong năm năm gần đây nhất, 2019-2023, tăng trưởng giảm xuống 5, 2% mỗi năm, khi GDP/đầu người là 4. 164 đô la Mỹ, một phần lớn là do ảnh hưởng của Covid-19. Nói chung, mức tăng trưởng của Việt Nam đã chững lại khi mới đạt GDP/đầu người với mức độ rất thấp.

Việt Nam khó lòng sánh được với các nước con rồng châu Á vì sự tụt hậu sẽ luôn hiện hữu nếu tăng trưởng “chậm” và “sớm” như vậy.

Giải pháp cho Việt Nam

Cần tiếp tục nâng cao chất lượng nhân lực nhằm hạn chế dần nguy cơ tụt hậu. Cụ thể Việt Nam cần thiết phải

  • Đẩy mạnh cải cách thể chế, xây dựng thị trường cạnh tranh lành mạnh, không chịu ảnh hưởng bởi nạn nhũng nhiễu của các nhóm lợi ích;
  • Cải thiện hiệu quả của bộ máy quản lý nhà nước và phát triển công nhân có chuyên môn kĩ thuật phù hợp với tình hình hiện tại;
  • Phát triển hạ tầng, đặc biệt cho công nghiệp thông minh và công nghiệp xanh;
  • Tiếp nhận và khai thác hiệu quả nguồn đầu tư FDI đang dần chuyển dịch khỏi Trung Quốc và các nước Đông Nam Á.

Ngoài ra, có một yếu tố khác cũng cần được chú ý hơn, đó là tỷ lệ nợ doanh nghiệp phi tài chính đã rất cao.

Dự báo triển vọng kinh tế Toàn cầu và ảnh hưởng đến Việt Nam trong năm 2024
Kinh tế Việt Nam năm 2024 sẽ tiếp tục khởi sắc

Theo Sách Trắng Doanh nghiệp 2023 mà Tổng cục Thống kê mới công bố, tỷ lệ dư nợ doanh nghiệp phi tài chính trên GDP liên tục tăng suốt thời kỳ vừa qua, đạt khoảng 255% cuối năm 2021, phần lớn là dư nợ trong nội địa (vay nợ bằng ngoại tệ đóng góp hơn 10% (tương đương 103 tỉ đô la Mỹ) tổng số dư nợ). Tỷ lệ trên cao nhất toàn cầu (có tỷ lệ nợ trung bình là 95%).

Tương tự ở Trung Quốc (với tỷ lệ nợ doanh nghiệp phi tài chính trên GDP 167%), nợ doanh nghiệp tăng cao làm cả hệ thống tài chính và nền kinh tế mất cân bằng, thậm chí gặp cảnh khủng hoảng kinh tế. Vì biện pháp xử lý nào cũng có cái giá để trả cho nên tình hình nợ doanh nghiệp tăng cao ngày càng phức tạp. Khuynh hướng hiện tại của Việt Nam là hạ lãi suất, kích thích ngân hàng đẩy mạnh hoạt động cho vay, tăng tín dụng đối với doanh nghiệp.

Trong thời gian ngắn hạn, làm như vậy cũng giúp thúc đẩy đà phục hồi của thị trường nhà đất và kinh tế nói chung. Tuy nhiên, nếu tình trạng kinh tế trở nên xấu (do lạm phát tăng hay lượng tiêu thụ và giá bán sụt giảm) thì cái giá phải trả là tăng các khoản dư nợ của doanh nghiệp (vốn đã rất cao) sẽ làm tăng khả năng bùng nổ nợ nần trong dài hạn.

Ngược lại, nếu mạnh tay bán hết các khoản nợ lớn và các doanh nghiệp đã giải thể (trị giá tài sản thấp quá số nợ phải trả và vốn điều lệ sở hữu) sẽ là cú shock khiến kinh tế chững lại hoặc suy thoái. Nhưng trong dài hạn, việc này giúp ổn định bảng cân đối tài chính của doanh nghiệp và ngân hàng, tạo nền tảng kinh tế tiếp tục tăng trưởng mạnh mẽ và vững chắc hơn nữa.

Khi nhà nước ta tiến hành xử lý và tái cơ cấu nợ ngân hàng và doanh nghiệp đã giải thể ở mức độ trung bình để tình hình kinh tế, xã hội còn chịu đựng được thì cách thức xử lý tương tự của Trung Quốc nên áp dụng. Đồng thời, phải duy trì tăng trưởng ít nhất và đối mặt với cái giá mà phải trả là điều vẫn có thể tiếp diễn trong nhiều năm tới một khi quốc gia tiến hành kích thích và cải cách có chọn lọc.

Trong năm năm vừa qua, nghiên cứu của Trung Quốc tìm ra để giảm tỷ lệ nợ doanh nghiệp phi tài chính trên GDP cần phải tiếp tục thực hiện các chính sách giảm tỷ lệ nợ doanh nghiệp thời hạn dài. Trung Quốc đã giảm tỷ lệ nợ doanh nghiệp 163% trong quí 3-2020 và 158% trong quí 2-2022; tuy nhiên sau đó đã vọt tới 167% trong quí 3-2023 – chủ yếu do Covid-19.

Nói tóm lại, tăng trưởng kinh tế đang bị ảnh hưởng do vấn đề nợ và tăng trưởng thấp vì vậy cần thiết phải xử lý vấn đề nợ doanh nghiệp phi tài chính rất cao.

Nếu bài viết này của Singhang mang lại thông tin hữu ích cho bạn, vui lòng Like và Share để bạn bè của bạn cùng đọc nhé!

Bài viết liên quan

Chuyên mục

Bài viết mới

Scroll to Top
Tư vấn 1-1 Hỗ trợ từ a-z Giải pháp Logistics | Singhang Logistics
Tư vấn 1-1 Hỗ trợ từ a-z Giải pháp Logistics | Singhang Logistics